Chuyên gia tài chính - ngân hàng , TS. Nguyễn Trí Hiếu
Trong bối cảnh hiện nay, khi biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang trở thành những vấn đề cấp bách, tín dụng xanh nổi lên như một giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy các dự án thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, việc phát triển tín dụng xanh vẫn gặp nhiều khó khăn và thách thức, cần có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ từ chính phủ. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, PetroTimes có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính - ngân hàng.
PV: Thưa TS. Nguyễn Trí Hiếu, tín dụng xanh có vai trò như thế nào trong việc thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn phát triển bền vững? Xu hướng của loại tín dụng này sẽ thế nào ?
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Tín dụng xanh là hình thức cung cấp vốn cho các dự án, doanh nghiệp hoặc hoạt động có lợi cho môi trường, chẳng hạn như năng lượng tái tạo, nông nghiệp bền vững, và xử lý chất thải.
Với mục đích hướng tới các dự án tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo và công nghệ sạch, các sản phẩm tín dụng xanh góp phần đem lại những lợi ích to lớn về phát triển nền kinh tế hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh, bền vững. Vì vậy, phát triển dòng tín dụng xanh là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Ngoài ra, nguồn vốn tín dụng xanh còn giúp doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ, giảm chi phí giá thành, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thân thiện môi trường, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Về xu hướng, tín dụng xanh chắc chắn sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, khi các vấn đề về môi trường ngày càng được chú trọng. Các quốc gia trên thế giới, bao gồm Việt Nam sẽ phải đối mặt với áp lực ngày càng lớn từ cộng đồng quốc tế về việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường. Do đó, tín dụng xanh sẽ trở thành một công cụ quan trọng trong việc thúc đẩy các dự án bền vững và đáp ứng các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường. Hơn nữa, với sự phát triển của công nghệ và các sáng kiến tài chính mới, tín dụng xanh sẽ ngày càng trở nên phổ biến.
PV: Để các doanh nghiệp tham gia vào các dự án xanh cần phải có nguồn tài chính dồi dào, bền vững. Tuy nhiên, hiện nay, doanh nghiệp rất khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn xanh. Vậy theo ông, đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này?
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Khi nói về công trình xanh, chúng ta hiểu rằng đây là những dự án đầu tư rủi ro. Thông thường, mức độ rủi ro có thể đo lường hoặc dễ dàng nhận ra. Ví dụ, một dự án có thể được đánh giá hiệu quả thông qua báo cáo tài chính hoặc một khoản vay ngân hàng. Mức độ rủi ro của những khoản vay này dễ dàng nhận diện.
Tuy nhiên, tín dụng xanh là một loại tín dụng dành cho các dự án cải tạo môi trường và hướng đến một môi trường sống xanh, sạch, đẹp hơn. Hiện tại, các tiêu chí để đo lường môi trường vẫn còn thiếu. Vì vậy, việc sử dụng tín dụng xanh cho các dự án môi trường gặp nhiều khó khăn trong việc đánh giá hiệu quả của dự án. Khi chưa có những tiêu chí nhất định để xác định môi trường xanh là gì và hiệu quả của nó ra sao, việc đo lường kết quả trở nên phức tạp và không chắc chắn.
Chính vì sự rủi ro này, việc xác định nguồn trả nợ và đánh giá hiệu quả của tín dụng xanh trở nên khó khăn, tạo ra những rủi ro cho các vấn đề liên quan đến tín dụng sạch.
Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác như: nhiều doanh nghiệp và ngân hàng vẫn chưa hiểu rõ về lợi ích của tín dụng xanh và còn e ngại về tính rủi ro của các dự án xanh.
Thứ hai, là vấn đề về kỹ thuật và công nghệ: Các dự án xanh thường đòi hỏi công nghệ cao và nguồn nhân lực có chuyên môn sâu, trong khi đó, nguồn lực này ở Việt Nam còn khá hạn chế.
Thứ ba, là vấn đề về chính sách: Mặc dù nhà nước đã có một số chính sách hỗ trợ, nhưng chính sách đó vẫn chưa đủ mạnh và đồng bộ để thúc đẩy tín dụng xanh phát triển mạnh mẽ hơn.
PV: Theo ông, để tháo gỡ những khó khăn trên, cần phải có những giải pháp nào để thúc đẩy tín dụng xanh?
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Theo tôi, để tháo gỡ những khó khăn trên, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp đồng bộ, cụ thể:
Thứ nhất, cần có một định nghĩa rõ ràng về môi trường xanh. Chẳng hạn, một dự án của một doanh nghiệp nuôi bò sữa cũng có thể thuộc loại cung cấp tín dụng cho môi trường sống. Việc nuôi bò sữa có hiệu quả kinh doanh dễ dàng đo lường được. Tuy nhiên, một dự án xanh về cải tạo môi trường để giảm khí CO2 lại khác. Cần xác định mức độ giảm khí CO2, phạm vi đo lường, và cách sử dụng tiền để mua trang thiết bị hoặc cải tạo môi trường. Trước hết, kết quả của các dự án này phải được định lượng, và việc định lượng này cần có tiêu chí rõ ràng.
Thứ hai, nên có một cơ quan để định lượng các tiêu chí này. Hiện tại, chúng ta vẫn thiếu những cơ quan có khả năng lượng hóa việc cải tạo môi trường, điều này rất quan trọng để đo lường hiệu quả của một dự án. Đây là yếu tố cơ bản nhất để hỗ trợ tín dụng xanh, tức là phải đo lường được kết quả của việc cải tạo môi trường.
Thứ ba, tăng cường tuyên truyền và nâng cao nhận thức về tín dụng xanh cho các doanh nghiệp và ngân hàng. Điều này có thể thông qua các hội thảo, khóa đào tạo, và chương trình truyền thông.
Thứ tư, doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư vào công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Hợp tác với các tổ chức quốc tế và các trường đại học hàng đầu có thể giúp Việt Nam tiếp cận được các công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực này.
Thứ năm, có các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ phía Chính phủ, chẳng hạn như giảm thuế, hỗ trợ lãi suất, và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn xanh.
Chính sách hỗ trợ của Chính phủ đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy tín dụng xanh/Ảnh minh họa
PV: Trong quá trình triển khai tín dụng xanh, việc đánh giá rủi ro thường gặp phải những thách thức gì và làm thế nào để khắc phục, thưa ông?
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Đánh giá rủi ro trong các dự án xanh thường phức tạp hơn so với các dự án truyền thống do tính đặc thù về môi trường và công nghệ. Một số thách thức bao gồm sự thiếu hụt dữ liệu lịch sử về hiệu quả của các dự án xanh, sự không chắc chắn về công nghệ mới và biến động của thị trường.
Để khắc phục, các ngân hàng cần đầu tư vào hệ thống quản lý rủi ro tiên tiến, xây dựng đội ngũ chuyên gia có kiến thức sâu về môi trường và công nghệ, và hợp tác chặt chẽ với các tổ chức tư vấn quốc tế để cập nhật các phương pháp đánh giá rủi ro mới nhất.
PV: Ông có thể cho biết cụ thể những rủi ro của ngân hàng trong việc cấp tín dụng cho các dự án xanh là gì?
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Thứ nhất, 80% nguồn vốn của hệ thống ngân hàng là vốn ngắn hạn của khách hàng. Nếu ngân hàng tài trợ cho các dự án xanh kéo dài 5-10 năm hoặc lâu hơn, họ sẽ gặp khó khăn, đặc biệt khi Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn rất thấp. Do đó, ngân hàng không thể trông cậy nhiều vào việc tài trợ dài hạn cho các dự án này.
Thứ hai, các dự án xanh có mức độ rủi ro cao và khó đánh giá hiệu quả. Hiện tại, chưa có tiêu chí rõ ràng để đánh giá, làm cho việc cho vay để cải tạo môi trường trở nên mơ hồ và rủi ro.
Ngoài ra, các ngân hàng cung cấp vốn cho dự án xanh thường không tạo ra lợi nhuận cao. Nếu phải cho vay dài hạn với lãi suất thấp và rủi ro cao, ngân hàng sẽ không dám làm, trừ khi đó là ngân hàng có vốn của chính phủ và tuân theo chính sách tín dụng của chính phủ.
PV: Vậy theo ông, để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước cần phải có giải pháp như thế nào?
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Để tháo gỡ, vướng mắc trong việc cung cấp tín dụng cho các dự án xanh, Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra quy định rõ ràng về tỷ lệ tín dụng xanh trong danh mục tín dụng của các ngân hàng.
Cụ thể, mỗi ngân hàng nên dành từ 10% đến 20% danh mục tín dụng của mình để hỗ trợ các dự án môi trường, đạt tiêu chí tín dụng xanh. Quy định này sẽ buộc các ngân hàng phải thu xếp nguồn vốn và tìm các dự án đáp ứng tiêu chí.
Thứ hai, cần phát triển thị trường trái phiếu xanh. Các ngân hàng và doanh nghiệp lớn có thể tham gia vào việc phát hành và giao dịch trái phiếu xanh. Sự bảo lãnh của chính phủ cũng rất quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của loại hình này. Chính phủ cần đưa ra chương trình hành động cụ thể, với các bước thực hiện rõ ràng cho từng năm và các tỷ lệ phải đạt được. Nếu chỉ đưa ra các chỉ thị chung chung mà không có kế hoạch cụ thể, thì sẽ không đạt được hiệu quả.
Cuối cùng, các ngân hàng cần tuân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và tham gia tích cực vào việc thúc đẩy tín dụng xanh. Việc này đòi hỏi một lộ trình cụ thể và cam kết từ tất cả các bên liên quan.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
"Chính sách hỗ trợ của Chính phủ đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy tín dụng xanh. Trước tiên, cần có các biện pháp tài chính như miễn, giảm thuế cho các dự án xanh, cung cấp các khoản vay ưu đãi với lãi suất thấp hoặc không lãi suất cho các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này. Đây là biện pháp mà chính phủ có thể thực hiện ngay để thúc đẩy các hoạt động bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, cần xây dựng khung pháp lý rõ ràng và minh bạch về các tiêu chuẩn môi trường, từ đó giúp các doanh nghiệp dễ dàng tuân thủ và tiếp cận các nguồn vốn xanh.
Ngoài ra, việc tìm kiếm nguồn vốn cung cấp cho các dự án môi trường cần sự hỗ trợ từ chính phủ thông qua việc bảo lãnh tín dụng, bao gồm cả trái phiếu xanh. Bởi nguồn lực của chính phủ dồi dào có thể đảm bảo trả nợ thay cho các chủ dự án khi họ không thực hiện được cam kết.
Mặc dù một số doanh nghiệp lớn có vốn nhà nước có thể tự phát hành trái phiếu xanh, các doanh nghiệp tư nhân thì chưa quen với việc này ở Việt Nam. Do đó, việc thiết lập một nguồn vốn để sử dụng cho cải tạo môi trường cần có sự bảo lãnh của chính phủ.
Sự bảo lãnh của chính phủ là rất quan trọng để tạo niềm tin cho thị trường, giúp giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư và ngân hàng, đồng thời khuyến khích họ tham gia tài trợ cho các dự án này, đặc biệt là trong giai đoạn đầu khi thị trường chưa quen với các công cụ tài chính xanh.
Chính phủ cũng nên khuyến khích các ngân hàng thương mại phát triển các sản phẩm tài chính xanh và hỗ trợ họ trong việc đánh giá rủi ro của các dự án môi trường" - TS. Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh