Các hãng tổng hợp LNG lớn nhất là Shell, TotalEnergies và BP song nhiều công ty nhỏ hơn ở châu Âu và châu Á đang tích lũy các hợp đồng LNG, xây dựng cơ sở hạ tầng LNG mới và thành lập các nhiệm vụ giao dịch theo mục tiêu thị trường.
Ảnh minh họa
Trong hai thập kỷ qua, giao dịch LNG đã phát triển từ một tập hợp các trao đổi điểm-điểm đơn giản đến một mạng lưới phức tạp của các thỏa thuận hợp đồng. Trong lịch sử, các công ty cung cấp năng lượng và khí đốt đáng tin cậy mua LNG trực tiếp từ các chủ sở hữu cơ sở xuất khẩu lớn, vận chuyển nhiên liệu từ dự án hóa lỏng cho người dùng cuối. Tuy nhiên, khi ngành LNG mở rộng, những đổi mới trong hợp đồng và cơ cấu doanh nghiệp cho phép các công ty trung gian vừa mua LNG vừa bán lại trên khắp thế giới được gọi là những công ty đầu tư vào danh mục đầu tư hoặc công ty tổng hợp thanh khoản LNG đã phát triển chiếm ưu thế trong giao dịch LNG, ký kết cam kết mua LNG dài hạn từ nhiều nguồn khác nhau và khối lượng tiếp thị tới người mua trong khu vực. Để tạo thuận lợi cho tăng trưởng thương mại và công nghiệp, những người tham gia danh mục đầu tư đã mở rộng theo chiều dọc vào tất cả các khía cạnh của chuỗi giá trị, từ sản xuất khí đốt đến hóa lỏng, vận chuyển, tái hóa khí và bảo quản.
Các hãng tổng hợp LNG lớn nhất là Shell, TotalEnergies và BP song nhiều công ty nhỏ hơn, bao gồm các nhà kinh doanh hàng hóa, các công ty dầu mỏ quốc gia (NOC) và các công ty tiện ích châu Âu và châu Á đang tích lũy các hợp đồng LNG, xây dựng cơ sở hạ tầng LNG mới và thành lập các nhiệm vụ giao dịch theo mục tiêu thị trường. Trong 3 năm qua, những người tham gia danh mục đầu tư đã trở thành đối tác lớn nhất của các khoản đầu tư dài hạn mới. Năm 2023, các hãng tổng hợp trên được cho là đã cam kết mua khoảng 2/3 công suất xuất khẩu LNG đang được xây dựng ở khu vực Bắc Mỹ. Trong khi đó, thời hạn trung bình của các hợp đồng mua bán LNG được ký kết bởi những người tham gia danh mục đầu tư đã tăng từ 5 năm (2017) đến hơn 15 năm (2022), phản ánh suy đoán về khả năng bán lại của các hãng tổng hợp khối lượng LNG đáng kể trong khoảng thời gian dài hơn. Tháng 10/2023, các hãng Shell, TotalEnergies và Eni đã ký kết các hợp đồng mua LNG với Qatar Petroleum kéo dài 27 năm nhằm đáp ứng mục tiêu net-zero đến năm 2050. Các hãng tổng hợp bán lại LNG cho khách hàng thông qua hợp đồng dài hạn hoặc bán hàng trên thị trường giao ngay (spot) thường với mức giá cao hơn quy định (premium). Phần khối lượng được bán lại theo hợp đồng dài hạn được gọi là tỷ lệ hợp đồng.
Tăng trưởng nhu cầu LNG toàn cầu đến năm 2028 có thể sẽ khiến kỳ vọng lạc quan bị thất vọng. Các nguyên tắc cơ bản về nhu cầu LNG ở châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc cùng chiếm hơn một nửa lượng tiêu thụ LNG toàn cầu vào năm 2023 đã chỉ ra sự sụt giảm trong dài hạn trong nhập khẩu LNG. Thay vào đó, triển vọng từ lĩnh vực công nghiệp LNG dự kiến tăng trưởng nhu cầu nhanh chóng và bền vững ở các thị trường mới nổi cho đến năm 2040. Tuy nhiên, sau nhiều năm giá LNG tăng cao và biến động, cùng với sự chậm trễ kéo dài cho các dự án cơ sở hạ tầng nhập khẩu LNG mới, đã làm chậm lại tốc độ tăng trưởng nhu cầu cơ cấu ở các nước châu Á mới nổi.
Trong khi thị trường dư cung và giá thấp hơn trong thập kỷ này có thể sẽ gây ra một số phản ứng về nhu cầu trong các khu vực trên thế giới khác nhau, các rào cản cơ cấu đối với việc hấp thụ LNG, bao gồm các kế hoạch dài hạn về năng lượng và ứng phó với biến đổi khí hậu ở châu Âu và khu vực Đông Bắc Á cũng như những thách thức về cơ sở hạ tầng và tài chính ở các nước châu Á mới nổi, có khả năng làm suy yếu kỳ vọng về tăng trưởng nhanh và bền vững trong trung hạn. Mỗi khu vực nhập khẩu LNG sẽ phải đối mặt với những động lực nhu cầu khác nhau:
- Châu Âu: Nhu cầu LNG của châu Âu tăng vọt vào năm 2022 khi các chuyến hàng khí đốt qua đường ống của CHLB Nga giảm. Tuy nhiên, nhập khẩu LNG không thay đổi vào năm 2023 và dự kiến sẽ giảm từ năm 2025 với tổng thể mức tiêu thụ khí đốt giảm do cả chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu và quan ngại về an ninh năng lượng.
- Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan-Trung quốc: Nhật Bản là nước nhập khẩu LNG lớn thứ hai thế giới (2023), nhu cầu LNG đã giảm 20% kể từ năm 2018. Các kế hoạch về năng lượng và ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm mục đích thúc đẩy năng lượng tái tạo và sản xuất điện hạt nhân có thể khiến nhu cầu LNG giảm 1/3 so với mức năm 2019. Nhu cầu của Hàn Quốc cũng có khả năng giảm do thị phần của sản xuất điện LNG giảm, trong khi chính sách của Đài Loan-Trung quốc hướng tới không dùng điện hạt nhân nên có thể thúc đẩy nhập khẩu LNG.
- Trung Quốc: Sản xuất khí đốt trong nước, nhập khẩu khí đốt qua đường ống và các chính sách nhằm thúc đẩy an ninh năng lượng có thể sẽ hạn chế nhập khẩu LNG của Trung Quốc. Nếu giá cả giảm, tiêu thụ LNG có thể tăng lên. Tuy nhiên, tăng trưởng nhu cầu yếu hơn dự báo trong ngắn hạn có thể khiến người mua có khối lượng dư thừa theo hợp đồng.
- Khu vực Nam Á: Giá cả LNG thấp có thể khuyến khích sự phục hồi nhu cầu từ CH Ấn Độ, Bangladesh và Pakistan, sau khi nhập khẩu giảm tổng cộng 16% (2022). Tuy nhiên, sự nhạy cảm trước biến động giá LNG, thách thức tài chính và cạnh tranh nguồn năng lượng trong ngành điện lực cho thấy tăng trưởng nhu cầu LNG trung hạn của khu vực có thể không đồng đều.
- Khu vực Đông Nam Á: Các mốc thời gian dự kiến phát triển dự án mở rộng cho cơ sở hạ tầng LNG mới, cùng với giá cả LNG biến động và tính kinh tế tương đối thuận lợi của các giải pháp thay thế nguồn năng lượng, có khả năng hạn chế tiềm năng tăng trưởng nhu cầu LNG của khu vực Đông Nam Á.
Kỳ I: Nguồn cung LNG bùng nổ
Kỳ II: Sản xuất LNG toàn cầu và độ tin cậy