Ảnh minh họa
Một lượng lớn tài liệu đã nghiên cứu tác động của chiến lược CE đối với phát thải khí nhà kính GHG và sử dụng vật liệu. Ví dụ theo như Material Economics (2018) đã ước tính các chiến lược CE xung quanh sắt thép, nhựa, nhôm và xi măng có thể làm giảm 56% lượng khí thải công nghiệp vào năm 2050. Theo Ciacci et al. (2020) thì lại tập trung vào sự phát triển của nhu cầu đồng được dự báo cũng sẽ tăng trưởng trong lĩnh vực xe điện EV và cơ sở hạ tầng thu phí, mục tiêu của EU là xem xét cắt giảm 50% lượng phát thải khí nhà kính GHG trong lĩnh vực này vào năm 2050 khi nhận thấy ba trong số bốn kịch bản, sản xuất đồng thứ cấp sẽ không đủ để tuân thủ mục tiêu phát thải, ngay cả khi kết hợp với hoạt động tái chế tích cực, loại bỏ carbon lại vừa phải cải thiện hiệu quả sử dụng điện và năng lượng. Tuy nhiên, những nghiên cứu này và hầu hết tài liệu nghiên cứu trên đã phân tích từng lĩnh vực một, độc lập với những gì đang xảy ra ở phần còn lại của nền kinh tế.
Sau đây, E4S đánh giá các chiến lược CE trong bối cảnh quá trình loại bỏ carbon, sử dụng mô hình hệ thống động được gọi là EUCalc cho phép E4S mô phỏng tác động của công nghệ và chi tiết lối sống thay đổi trong khi tính đến sự phức tạp phi tuyến tính xảy ra trong toàn bộ nền kinh tế. Cách tiếp cận này sẽ cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về sự phối hợp và đánh đổi tiềm năng khi chiến lược CE xảy ra đồng thời trong xã hội.
4.1 Chiến lược dài hạn của EU cho đến năm 2050
EU đã đặt ra tầm nhìn đạt được mục tiêu trung hòa khí hậu trong chiến lược dài hạn (long-term strategy-LTS) đến năm 2050 khi nhận thấy quá trình chuyển đổi theo hướng trung hòa khí hậu là một thách thức cấp bách, do vậy, EU đã khám phá một số con đường để đạt được GHG net-zero vào năm 2050. Điểm bắt đầu là đường cơ sở LTS, phản ánh các chính sách và mục tiêu đến năm 2030 đã được EU thống nhất kể từ tháng 11/2018. Những biện pháp này dự kiến sẽ chỉ cắt giảm phát thải carbon khoảng 60% so với mức năm 1990, điều này không đáp ứng được cam kết của EU về trung hòa khí hậu. Do đó, Ủy ban Châu Âu EC đã điều tra một số đường hướng thay thế và tham vọng hơn để đạt được mục tiêu net-zero. E4S xem xét ba kịch bản dựa trên những phương cách này, gồm:
- Kịch bản Life miêu tả một Châu Âu với những thay đổi công nghệ đầy tham vọng, ví dụ như hệ thống năng lượng hiệu quả hơn, tòa nhà cách nhiệt tốt hơn, điện khí hóa phương tiện xe cộ, gia tăng hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu trong công nghiệp và triển khai của công nghệ thu hồi carbon.
- Kịch bản Tech lại miêu tả một châu Âu với những thay đổi công nghệ đầy tham vọng, ví dụ như hệ thống năng lượng hiệu quả hơn, tòa nhà cách nhiệt tốt hơn, điện khí hóa phương tiện xe cộ, gia tăng hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu trong công nghiệp và triển khai của công nghệ thu hồi carbon dựa trên kịch bản lộ trình EU 1.5TECH kết hợp tất cả các công nghệ trước đó và chủ yếu dựa vào việc triển khai sinh khối cũng như công nghệ thu hồi và lưu trữ carbon.
- Kịch bản Tango thì giả định sự thay đổi trong mô hình sản xuất và tiêu dùng hướng tới một nền kinh tế tuần hoàn hơn kết hợp những thay đổi hành vi và công nghệ đầy tham vọng nhất của cả hai kịch bản Life và Tech.
Tất cả các kịch bản E4S nhận thấy châu Âu sẽ phải áp dụng mạnh mẽ công nghệ và những thay đổi hành vi để đạt mục tiêu net-zero vào năm 2050:
(i) Đường cơ sở LTS cho thấy với các chính sách hiện tại, EU còn lâu mới đạt được mục tiêu net-zero được thúc đẩy bởi Chỉ thị về năng lượng tái tạo và Chỉ thị về hiệu quả năng lượng, góp phần giảm mạnh lượng khí thải nhà kính GHG trong xây dựng một số đường hướng thay thế và tham vọng hơn để đạt được mục tiêu net-zero, bao gồm trong các tòa nhà (-6% vào năm 2050 so với mức tham chiếu năm 2015) và nguồn cung cấp năng lượng (-73%), lượng khí thải trong sản xuất vẫn ở mức cao (-22,5%), đặc biệt là do các ngành công nghiệp khó khăn như sắt thép, xi măng và hóa chất.
(ii) Kịch bản Life nhấn mạnh, thậm chí với những thay đổi hành vi mạnh mẽ, EU sẽ không thể đạt được mục tiêu net-zero vào năm 2050. Tuy nhiên, việc giảm khoảng cách di chuyển du lịch, tăng tỷ trọng giao thông công cộng và việc áp dụng tỷ lệ khí thải xe ô-tô giúp giảm 73% lượng khí thải trong giao thông vào năm 2050 với so với năm 2015. Ngoài ra, lượng khí thải trong nông nghiệp giảm 61% do việc áp dụng chế độ ăn uống lành mạnh hơn và giảm lãng phí thực phẩm.
(iii) Kịch bản Tech, Châu Âu sẽ đạt mục tiêu net-zero vào khoảng năm 2050 với những thay đổi công nghệ đầy tham vọng và cắt giảm đáng kể lượng khí nhà kính GHG trong các tòa nhà (-90%), vận tải (-88%) và sản xuất (-65%) vào năm 2050 so với mức tham chiếu của năm 2015, nhờ vào gia tăng hiệu quả sử dụng vật liệu và chuyển sang sử dụng các vật liệu ít thải carbon hơn. Tuy nhiên, tính trung hòa khí hậu chỉ đạt được nhờ vào việc triển khai rộng rãi công nghệ thu hồi và lưu trữ carbon, loại bỏ 520 MtCO₂eq mỗi năm vào năm 2050.
(iv) Kịch bản Tango kết hợp hành vi quyết liệt và công nghệ cho phép EU đạt mức net-zero vào năm 2040. Những thay đổi trong lối sống sẽ tăng tốc và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi, đóng góp tới hơn 20% tổng thể GHG cần thiết để đạt mức net-zero trong kịch bản Tango.
4.2 Chiến lược tuần hoàn cho các lộ trình hướng tới net-zero
Hiện mỗi kịch bản trên đều dựa trên các giả định, đặc biệt là về sự phát triển của các chiến lược CE trong những năm tới. Trong Kịch bản đường cơ sở LTS, khả năng tái chế và hiệu quả sử dụng năng lượng được cải thiện đáng kể. Liên minh châu Âu EU đã gieo mầm cho quá trình chuyển đổi năng lượng sạch như được minh họa bởi báo cáo hiệu quả năng lượng và các chỉ thị về năng lượng tái tạo nhằm mục đích cải thiện hiệu quả năng lượng và đạt 42,5% năng lượng tái tạo vào năm 2030. Những nỗ lực này dự kiến sẽ tiếp tục thực hiện đến năm 2050. Ví dụ, nhãn sinh thái (eco-label) có thể giúp tăng số lượng hiệu quả thiết bị lên 65% (2050), giảm vừa phải hơn trong kịch bản Tango (89%). Các chính sách CE, ví dụ như Chỉ thị về Khuôn khổ chất thải cũng có thể cải thiện đáng kể tỷ lệ tái chế: 58% thép thứ cấp, 72% nhôm thứ cấp và 80% giấy thứ cấp (2050).
Tuy nhiên, Kịch bản đường cơ sở LTS vẫn thiếu cam kết xung quanh các khía cạnh khác của CE, cụ thể là thu hẹp, làm chậm và tái tạo các dòng chảy. Ví dụ như khoảng cách di chuyển trung bình tiếp tục tăng (+18% vào năm 2050 so với năm 2015), số lượng thiết bị do hộ gia đình sở hữu tăng lên (ví dụ như 2,3 máy tính vào năm 2050 so với 1,7 vào năm 2015) trong khi tuổi thọ của các thiết bị vẫn ở mức năm 2015, các nguồn tài nguyên không tái sinh như sắt thép và xi măng vẫn chiếm ưu thế trong xây dựng các tòa nhà.
4.3 Tiêu thụ nguyên vật liệu và lộ trình hướng tới net-zero
Tác động của công nghệ và những hành vi thay đổi vượt xa việc cắt giảm lượng khí thải carbon. Ngày nay, các nguyên vật liệu được sử dụng rộng rãi nhất trong các lĩnh vực chiến lược ở EU là nhôm, đồng, niken, kim loại silicon và mangan. Ủy ban Châu Âu EC đã giải quyết vấn đề tìm nguồn nguyên liệu cho quá trình sản xuất này với việc đã xác định 51 nguyên liệu thô quan trọng (CRM) là những nguyên liệu có tầm quan trọng kinh tế cao và có nguy cơ cung cấp cao. Trong số các CRM này, EC đã xác định 26 nguyên liệu thô chiến lược (SRM) được sử dụng rộng rãi trong 15 công nghệ chiến lược đối với EU, bao gồm pin lithium-ion, turbine gió, quang điện mặt trời và robot. Cụ thể, lithium, than chì, coban, niken và mangan còn được sử dụng rộng rãi trong pin lithium-ion. Các nguyên tố đất hiếm như dysprosium, neodymium, praseodymium và terbium, được sử dụng trong nam châm trong động cơ kéo, turbine gió và công nghệ thông tin. Bạch kim được sử dụng trong pin nhiên liệu, công nghệ điện phân và công nghệ thông tin. SRM cũng được sử dụng trong hầu hết các công nghệ ngày nay là quặng nhôm và sắt (được sử dụng trong tất cả 15 công nghệ), đồng, niken, silicon kim loại (14 công nghệ) và mangan (13 công nghệ).
Dự báo các vật liệu sẽ có mức tăng lớn nhất nhu cầu trong những năm tới là lithium, than chì, coban, niken, các nguyên tố đất hiếm các chất như neodymium, dysprosium, Carrara và cộng sự, năm 2023 đã ước tính sự gia tăng nhu cầu về vật liệu chiến lược từ nay đến năm 2050 do quá trình chuyển đổi net-zero. Ở châu Âu, nhu cầu về than chì và lithium đến năm 2050 sẽ lần lượt là 22 và 18 lần lớn hơn so với mức hiện nay. Mặc dù còn ở mức thấp hơn mức độ, nhu cầu về niken và coban sẽ cũng tăng lần lượt là 14 và 4 lần so với mức hiện nay. Trong số các nguyên tố đất hiếm, neodymium và dysprosium sẽ là những nguyên tố có nhu cầu cao nhất vào năm 2050, dự kiến sẽ tăng gấp 4 lần so với hiện nay.
Cuối cùng, đồng và nhôm sẽ tiếp tục được sử dụng rộng rãi, nhu cầu sẽ tăng lên lần lượt là 8 và 5 lần so với mức hiện nay. Trong Kịch bản của E4S, những thay đổi nhu cầu công nghệ về nguyên liệu tăng mạnh chẳng hạn như lithium và than chì. Nhu cầu khoáng sản vào năm 2050 trong Kịch bản Tech tăng hệ số 19 đối với lithium, hệ số 7 đối với than chì, hệ số 2 đối với đồng và hệ số 3 đối với niken. Quả thực, các công nghệ carbon thấp như xe điện EV, năng lượng tái tạo và pin đòi hỏi nhiều khoáng chất hơn lựa chọn thay thế của chúng. Tuy nhiên, thay đổi lối sống có thể giảm bớt áp lực đáng kể lên những vật liệu này và cũng các vật liệu khác. Quãng đường đi du lịch được giảm đi và sự phát triển của chia sẻ xe cộ là chìa khóa để bù đắp một phần cho sự gia tăng nhu cầu khoáng sản do điện khí hóa phương tiện vận chuyển. Kết quả là, trong Kịch bản Life, nhu cầu về lithium “chỉ” tăng lên hệ số 4 vào năm 2050 so với mức năm 2015 trong khi nhu cầu về than chì và niken sẽ tăng gấp đôi bởi vì các vật liệu khác như đồng, nhu cầu vẫn gần với giá trị năm 2015.
Sự kết hợp những thay đổi cả lối sống và công nghệ sẽ làm giảm nhu cầu nguyên liệu tổng thể, đặc biệt là trong các lĩnh vực khó giảm. Trong Kịch bản Tango, nhờ cải thiện hiệu quả sử dụng vật liệu và chuyển sang sử dụng tài nguyên năng lượng tái tạo, sản lượng sắt thép giảm đi 46% vào năm 2050 so với năm 2015 và được nâng cao tỷ lệ tái chế sẽ tiếp tục làm giảm nhu cầu về sắt thép (-65%). Mặt khác, các chiến lược tuần hoàn cũng dẫn đến một nhu cầu về nhôm giảm (-24%), chì (-27%) và đồng (-11%). Những mức giảm này nhiều hơn mức bù đắp cho sự gia tăng nhu cầu về lithium, than chì và niken với tổng nhu cầu nguyên vật liệu giảm 56% trong 2050 so với năm 2015.
Những dự đoán về nhu cầu vật chất này nêu bật sự đánh đổi đằng sau con đường loại bỏ carbon. Kịch bản Tango dẫn đến mức phát thải khí nhà kính GHG và nhu cầu về nhôm, đồng, sắt, niken, mangan và chì thấp nhất song nhu cầu thấp nhất về lithium và than chì đạt được trong Kịch bản Life. Ngoài ra, lượng nước được rút ra khỏi môi trường trong Kịch bản Life cũng sẽ ít hơn. Do đó, không có đường hướng nào hoàn hảo: Việc thực hiện chiến lược loại bỏ carbon phụ thuộc vào sự lựa chọn của xã hội, được hỗ trợ một cách lý tưởng bởi nhiều tiêu chí phân tích và các yếu tố ảnh hưởng đến cung và buôn bán tài nguyên, chẳng hạn như tình hình địa chính trị.
4.4 Những mặt hạn chế và công việc trong tương lai
Tất cả công việc và kết quả của E4S dựa trên những giả định nhất định và do đó có một số hạn chế nhất định. Trong mô phỏng của E4S, việc tiếp thu các công nghệ mới bị chi phối bởi việc áp dụng công nghệ đường cong, có một số điểm không chắc chắn. Ví dụ như doanh số bán xe điện đi theo quỹ đạo “định hình”. Tỷ lệ công nghệ việc áp dụng có thể không chắc chắn và có thể bị đánh giá thấp. Ngoài ra, mô hình chỉ bao gồm các công nghệ đã đủ trưởng thành. Sự xuất hiện của công nghệ mới có thể thay đổi kết quả của E4S, chẳng hạn bằng cách thay thế một nguyên liệu thô quan trọng bằng một nguồn tài nguyên khác.
Phân tích của E4S chỉ xem xét “phát thải theo lãnh thổ”, tức là lượng phát thải diễn ra ngay trong EU. Kết quả của E4S không bao gồm khí thải từ hàng hóa nhập khẩu và dịch vụ, tức là phát thải “dựa trên tiêu dùng”. Ước tính lượng phát thải dựa trên mức tiêu thụ là rất quan trọng để đánh giá toàn bộ dấu chân GHG của lối sống ở châu Âu. Thật vậy, khi điều chỉnh cho thương mại, lượng khí thải carbon của EU tăng đáng kể, khoảng 20% vào năm 2021. Để cung cấp một đánh giá toàn diện hơn về tác động của các chiến lược CE, E4S kỳ vọng tích hợp lượng khí thải carbon dựa trên tiêu dùng vào khuôn khổ mô hình của mình. Hơn thế nữa, việc đánh giá toàn diện về tác động môi trường của chiến lược CE nên xem xét tất cả các ranh giới hành tinh. Đường cong hình chữ S thường được sử dụng để thể hiện việc áp dụng công nghệ. Đầu tiên, chỉ có công nghệ mới tiếp cận những người chấp nhận sớm và tỷ lệ chấp nhận chậm, sau đó, việc áp dụng nhanh chóng tăng lên trước khi chững lại khi thị trường đạt đến độ bão hòa. Chính xác hơn, EUCalc bao gồm các công nghệ có mức độ sẵn sàng về công nghệ ít nhất là 5, tức là các công nghệ được xác nhận trong môi trường có liên quan.
5. Kết luận
Trong khi nền kinh tế EU đã được cải thiện ở một số mặt các khía cạnh của tính tuần hoàn chẳng hạn như tái chế song nó vẫn còn rất tuyến tính. Hiện các chiến lược kinh tế tuần hoàn có thể được phân loại như thế nào xoay quanh bốn luồng chính là thu hẹp (giảm thiểu), chậm (tái sử dụng), đóng (tái chế) và tái tạo. Trong 10 năm qua, chính những cải tiến trên đã có ở ứng dụng cuộc sống thứ hai của các bộ phận của sản phẩm và tái chế. Sự tiến bộ đó có thể một phần là do gói quy định mà Chính quyền EU đã đưa ra để thúc đẩy tính tuần hoàn, chẳng hạn như như Chỉ thị khung về chất thải, Chỉ thị về nhựa sử dụng một lần và Quy định về pin mới. Tuy nhiên, nền kinh tế EU ngày nay vẫn chủ yếu là tuyến tính, với tốc độ tăng tiêu thụ nguyên liệu thô và sản xuất chất thải, tỷ lệ đầu vào tái chế thấp trong sản xuất nguyên liệu thô, phụ thuộc nhiều vào nguồn năng lượng không tái tạo và sản xuất các hóa chất độc hại có chất thải lâu dài.
Tuy nhiên, một hệ sinh thái ngày càng sôi động mô hình kinh doanh tuần hoàn đang được xây dựng. Các việc áp dụng các mô hình tuần hoàn như vậy được thúc đẩy bởi áp lực pháp lý, khan hiếm tài nguyên, thay đổi sở thích của người tiêu dùng hướng tới các sản phẩm bền vững hơn, tiết kiệm chi phí nhờ nguồn lực hiệu quả và tiềm năng đạt được danh tiếng. Các mô hình tuần hoàn cũng có thể nâng cao khả năng phục hồi của công ty bằng cách đa dạng hóa chuỗi nguồn cung. Tuy nhiên, sự xuất hiện và việc mở rộng quy mô của các mô hình kinh doanh tuần hoàn vẫn còn bị cản trở bởi nhiều rào cản khác nhau như đầu tư cần thiết đáng kể để chuyển đổi mô hình, sự phức tạp của chuỗi cung ứng, nhận thức hạn chế của khách hàng và khả năng đối lại sự thay đổi trong các tổ chức. Khắc phục những hạn chế này đòi hỏi sự kết hợp của các chính sách hỗ trợ, ưu đãi tài chính, nỗ lực hợp tác liên ngành và xây dựng nhận thức.
Nhìn về phía trước, chiến lược CE là chìa khóa để giảm sự va chạm của ranh giới hành tinh và những tác động liên quan đến sức khỏe con người. Các chiến lược thu hẹp, chậm lại và đóng các dòng chảy sẽ cải thiện hiệu quả sử dụng nguyên liệu và giảm chất thải, có thể dẫn đến giảm lượng khí thải lớn hơn. Khả năng giảm GHG lớn nhất thông qua tính tuần hoàn đến từ thiết kế sản phẩm, chất liệu tái chế và hiệu quả, giảm lãng phí thực phẩm, cải thiện bao bì và thúc đẩy nền kinh tế chia sẻ và ứng dụng cuộc sống thứ hai trong lĩnh vực vận tải. Hơn thế nữa, các hành động tuần hoàn có thể bắt đầu đảo ngược độ vượt quá mức hiện tại của một số ranh giới hành tinh khác, ví dụ: thay đổi hệ thống đất, chu trình nitơ, chu trình phốt-pho và axit hóa đại dương.
Cho đến nay, các chính sách của EU chỉ bao gồm những cải thiện nhẹ nhàng hơn về tính tuần hoàn cho những năm tới đây và đã bỏ lỡ mục tiêu net-zero vào năm 2050. Để vạch ra việc triển khai các hành động tuần hoàn ở EU trong những năm tới, E4S đã sử dụng mô hình EUCalc để nghiên cứu chính thức chiến lược dài hạn của EU tới năm 2050. Trong Kịch bản cơ sở được xây dựng trên các chính sách hiện hành trước khi có chính sách Thỏa thuận Xanh Châu Âu, nền kinh tế EU cải thiện chủ yếu về tỷ lệ tái chế và hiệu quả năng lượng. Tuy nhiên, rất ít việc được thực hiện trên các luồng CE khác, chẳng hạn như thu hẹp, chậm lại và tái sinh kết hợp với các chính sách khác ngoài CE, việc thiết lập này dẫn đến việc bỏ lỡ mục tiêu net-zero với biên độ lớn vào năm 2050.
Trong một kịch bản tham vọng hơn, EU thực hiện các hành động CE để thu hẹp, làm chậm và tái tạo dòng chảy trong các lĩnh vực vận tải, các tòa nhà, công nghiệp, thực phẩm, nông nghiệp và năng lượng. Sau Thỏa thuận Xanh Châu Âu, Ủy ban Châu Âu EC hiện đang xem xét lại các chính sách liên quan đến áp lực môi trường, bao gồm các chính sách về nguyên liệu thô quan trọng, nhựa sinh học và nhựa phân hủy sinh học, sửa chữa hàng hóa, sản phẩm dệt-may và thiết kế sinh thái cho các sản phẩm bền vững nhằm tăng cường các biện pháp chuyển đổi và đạt mức net-zero vào năm 2050. Đó là do khả năng việc triển khai các hành động CE sẽ tăng tốc trên cả bốn cách quản lý dòng chảy một cách tuần hoàn. Gia tốc này được mô tả trong một kịch bản thay thế tôn trọng mục tiêu net-zero. Kịch bản này cải thiện việc thu hẹp dòng chảy, ví dụ bằng cách tăng công suất sử dụng trung bình xe ô-tô và hiệu quả sử dụng vật liệu, đồng thời bằng cách giảm việc sử dụng bao bì nhựa. Ngoài ra, nó còn góp phần làm chậm dòng chảy bằng cách kéo dài tuổi thọ của thiết bị và đóng dòng chảy bằng cách tăng cường tái chế nhiều hơn so với kịch bản cơ sở.
Cuối cùng, sự tái tạo các luồng chảy bằng cách thực hiện thay thế vật liệu trong các tòa nhà và phân kỳ sản xuất phân bón tổng hợp. Hơn thế nữa, những biện pháp đầy tham vọng này sẽ làm giảm bớt sự gia tăng nhu cầu về vật liệu, chẳng hạn như lithium, than chì và nhôm. Các vật liệu được coi là chiến lược để phát triển các công nghệ chủ chốt ở EU là nhôm, đồng, niken, kim loại silicon và mangan. Trong tầm nhìn trước mắt, những vật liệu sẽ có nhu cầu gia tăng lớn nhất vào năm 2050 là lithium, than chì, coban, niken là những nguyên liệu chính cho pin và các nguyên tố đất hiếm như neodymium và dysprosium sẽ được sử dụng để chế tạo nam châm.
Trong kịch bản đầy tham vọng nêu trên, sự gia tăng nhu cầu về vật liệu do những thay đổi công nghệ, đặc biệt là lithium và than chì, được giảm bớt nhờ thay đổi hành vi lớn. Các chiến lược tuần hoàn thậm chí còn dẫn đến giảm nhu cầu về sắt và nhôm. Nhìn chung, tổng nhu cầu nguyên vật liệu giảm tới 56% vào năm 2050 so với năm 2015.
Con đường phía trước cho CE ở EU thật mạnh mẽ song phụ thuộc vào mức độ ràng buộc của các quy định, cường độ của các áp lực địa chính trị và kinh doanh bên ngoài khối. Một số rào cản hiện tại đối với việc thực hiện quy định nền kinh tế tuần hoàn hơn là chi phí cao cho doanh nghiệp và cá nhân, hạn chế về vật chất và năng lượng chảy qua các ranh giới hành tinh (tức là giao dịch để tái chế), sự phụ thuộc và sự khóa chặt vào đường dẫn cao, những khám phá mới về nguyên liệu thô (ví dụ như dầu mỏ) và các phép đo không chính xác về các hành động CE. Mức độ nền kinh tế EU tuần hoàn hơn sẽ còn phụ thuộc vào mức độ hiệu quả của các luật lệ mới có thể giải quyết những rào cản này dựa trên ý chí chính trị mới của Ủy ban và Nghị viện châu Âu. Hơn thế nữa, nó cũng sẽ phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng EU, chẳng hạn như như tình trạng nguyên liệu thô quan trọng ở thị trường nước ngoài. Ví dụ như vai trò của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới trong thời gian tới sẽ rất then chốt cho chương trình nghị sự của CE bởi vì nó loại bỏ một khuôn khổ pháp lý và cơ sở hạ tầng cho phép mở rộng quy mô thực tiễn kinh tế tuần hoàn (ví dụ như cơ sở tái chế pin lithium-ion).
Trong khi việc áp dụng CE phụ thuộc chủ yếu vào về các yếu tố chính trị, kinh tế-xã hội, thì CE hầu như không phụ thuộc vào tiến bộ công nghệ. Nhiều giải pháp công nghệ chúng ta cần đã tồn tại và vấn đề cốt lõi là đầu tư và triển khai những thứ này trên quy mô lớn trong khung thời gian ngắn để vừa đáp ứng nhu cầu vừa phản ứng với sự thay đổi hành vi của người tiêu dùng.