Chuyện chưa biết về những “người dầu khí” ở Thái Bình

10:03 | 22/07/2024
Lượt xem: 463

Tháng 3-1975, dòng khí công nghiệp đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện tại Giếng khoan 61 (xã Đông Cơ, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình) và hình thành nên một tổ hợp công nghiệp tại miền đất còn rất nghèo khó này. Trong những ngày đầu gian khó đó, các cán bộ, kỹ sư thuộc Công ty Dầu khí I vừa cố gắng giữ nghề, vừa phải “tự xoay” để có thể lo miếng cơm manh áo cho gia đình.

 

Ông Nguyễn Xuân Nhự, nguyên Vụ phó Vụ Dầu khí, Văn phòng Chính phủ kể lại quá trình khoan thăm dò

Sản xuất… thuốc pháo để nuôi nghề

Trong dịp kỷ niệm 65 năm ngành Dầu khí Việt Nam thực hiện mong ước của Bác Hồ, chúng tôi được gặp ông Nguyễn Xuân Nhự, nguyên Vụ phó Vụ Dầu khí, Văn phòng Chính phủ. Người cựu cán bộ của Công ty Dầu khí I (thuộc Tổng cục Dầu khí, đóng chân tại TP Thái Bình) kể lại kỷ niệm không nhiều người biết về một thời gian lao của ông và các cán bộ, nhân viên, người lao động, để giữ lửa nghề và cũng là thực hiện quyết tâm xây dựng ngành.

Tháng 9-1971, chàng tân kỹ sư Đại học Mỏ - Địa chất tốt nghiệp về công tác tại Công ty Dầu khí I, được giao làm địa chất trưởng của giếng khoan địa chất, khảo sát.

Một thời gian sau, ông Nhự được phân về công tác phòng kỹ thuật đoàn 36K (khoan nông) đóng tại thị xã Thái Bình. Tại đây, ông theo dõi chỉ đạo một số giếng khoan nông, sau đó làm địa chất trưởng giếng khoan 35 ở xã Xuân Thủy (Giao Thủy, Nam Định). Tiếp đó, ông lại được cử về Phòng Kỹ thuật, theo dõi các giếng khoan sâu 2.400m và 3.900m…

Giai đoạn năm 1983-1991, ông Nhự công tác tại xưởng nghiên cứu thực nghiệm Công ty Dầu khí I. Dưới quyền của ông là gần 100 cán bộ thuần kỹ thuật.

“Thời kỳ đó, lương và phụ cấp của Nhà nước rất ít ỏi, lãnh đạo xưởng rất muốn tạo thêm công ăn việc làm, thêm thu nhập cho anh em. Vì nói gì thì nói, cứ động viên anh chị em quyết tâm giữ nghề, mà bụng đói thì rất khó…” - ông Nhự kể lại.

Cái khó ló cái khôn, sau một thời gian trăn trở, ông Nhự phát hiện ra một công việc mà có thể sử dụng “chất xám” của anh em kỹ sư địa chất, đồng thời cũng là một thứ hàng hóa rất “hot” thời bấy giờ. Đó là tham gia vào quy trình sản xuất… pháo nổ, cụ thể là làm thuốc pháo.

Qua mối quan hệ, ông biết làng pháo Bình Đà (Thanh Oai, Hà Tây cũ) mỗi năm cần một lượng thuốc pháo rất lớn để sản xuất. Mà theo nguyên lý, nếu có thể điện phân các hợp chất từ kali, có thể ra được thứ thuốc pháo “xịn sò”. Vậy là ông yêu cầu một số anh em giỏi hóa nhất xưởng “chụm đầu” làm thử. Một vài lần đầu thất bại, ông Nhự động viên anh em tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm và sau đó đã làm ra một thứ nguyên liệu rất tốt. Đến nỗi dân làng Bình Đà cứ thấy thuốc pháo của “Dầu khí” là xuýt xoa tranh nhau mua.

Với cái đầu tính toán không thua một CEO, ông Nhự không bán thuốc lấy tiền mặt mà giao dịch bằng… hàng đổi hàng. Để được lợi nhiều nhất, ông chọn thời gian đổi là vào đầu năm thay vì cuối năm. Vì nếu vào tháng Chạp, 1 cân thuốc pháo (làm từ phân kali) chỉ đổi được 1 bánh pháo thành phẩm, còn sang tháng Giêng, tháng Hai thì được hẳn 2 bánh, để đến cuối năm chất lượng vẫn rất tốt.

Khu lưu niệm Công trình dầu khí đầu tiên tại Việt Nam

Ngoài ra, lợi nhuận của xưởng thuốc pháo còn tiếp tục được gia tăng, khi ông Nhự thực hiện việc đổi phân kali. Số là trên thị trường khi đó có 2 loại phân là kali trắng và kali đỏ giá tương đương nhau, nhưng nông dân rất ưa chuộng kali đỏ, sẵn sàng đổi 2 bao trắng để lấy 1 bao đỏ.

Ông Nhự liền “đầu cơ” phân kali đỏ đổi cho hợp tác xã lấy kali trắng. Vậy là thay vì 1kg kali đỏ điện phân được 1,4kg thuốc pháo, khi đổi sang kali trắng, xưởng thu về đến gần 3kg thành phẩm.

Sau khi đổi thuốc pháo lấy được hàng vạn bánh pháo, ông Nhự chia nhỏ ra nhiều nơi bảo quản, tránh trường hợp cháy nổ. Đến Tết, tất cả cán bộ công nhân viên trong công ty đều được huy động để bán pháo.

Với nghề tay trái này, chỉ trong vài năm, xưởng sản xuất của ông Nhự đã làm ra được số tiền không nhỏ, tạo thu nhập gia tăng cho đội ngũ kỹ sư, cán bộ và có quỹ phúc lợi đi nghỉ mát...

Hơn nữa, cũng vì có thêm thu nhập cho gia đình mà anh chị em trong xưởng vẫn yên tâm giữ nghề. Sau đó công ty còn tự mở lớp học ngoại ngữ, cử nhiều cán bộ tham gia…

 

Kỹ sư Ngô Văn Kha tại Khu lưu niệm Công trình dầu khí đầu tiên tại Việt Nam - cũng là nơi ông có hơn 40 năm gắn bó với ngành Dầu khí

Kỹ sư khí kiêm nghề… chăn bò

Kỹ sư Ngô Văn Kha (nguyên Giám đốc Công ty Dầu khí Thái Bình) vốn là một trong những “hạt giống đỏ” của ngành, được Nhà nước cử sang học Đại học Dầu khí tại “thủ đô dầu mỏ” Bacu (Azerbaijan). Sau 5 năm học tập, trở về nước ông được phân về công tác tại Xí nghiệp Khai thác khí (thuộc Công ty Dầu khí I). Tại đây, kỹ sư Kha được biên chế về công tác tại phòng Vận hành khai thác.

Có thể nói, những ngày đầu đưa mỏ khí Tiền Hải “C” vào khai thác là cực kỳ gian khó vì đây là công việc hoàn toàn mới mẻ đối với những kỹ sư và thợ vận hành khai thác mỏ khí. Các thiết bị khai thác và phục vụ khai thác đều già cỗi, lạc hậu, được tận dụng từ quá trình tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở Đồng bằng Bắc Bộ. Trạm xử lý khí trung tâm cũng là do các kỹ sư Việt Nam thiết kế và lắp đặt.

Thời điểm đó mỏ khí Tiền Hải cũng chỉ cung cấp duy nhất cho turbine khí phát điện. Chiếc turbine này đã được sử dụng tại miền Nam một thời gian nên thi thoảng lại hỏng hóc.

Cơ sở vật chất thời kỳ ấy cũng hết sức nghèo nàn. Cả công ty chỉ có một dãy nhà cấp 4 chừng 10 phòng, mỗi phòng rộng hơn chục m2. Lương mỗi tháng được khoảng gần 300 đồng, một nửa cân thịt lợn và 21 cân gạo. Nhiều người còn cha mẹ già, con nhỏ nên anh em phải nghĩ đủ mọi cách để vừa giữ được nghiệp, mà cũng không để gia đình quá đói khổ.

Vậy là anh em bảo nhau tăng gia bằng cách nuôi bò, nuôi lợn. Bắt đầu từ một con bò nuôi từ lúc bé đến lớn, rồi sinh đẻ..., dần dà có cả một đàn. Số tiền lãi thu về đã cải thiện được đời sống cho anh em tiếp tục yên tâm theo nghề. Sau này thì sử dụng một phần khí thừa để nung vôi… Mãi về sau, Khu công nghiệp (KCN) Tiền Hải mới dần dần hình thành, nhiều công ty sản xuất gốm sứ, gạch… về quy tụ, đời sống anh em mới khá hơn.

Cũng theo ông Kha, tổng trữ lượng của mỏ khí Tiền Hải C là 1,3 tỉ m3, đã khai thác được hơn 700 triệu m3, quy ra tiền được 300 triệu USD. Và từ khi có các công trình dầu khí tại Thái Bình, cái được đầu tiên cho địa phương là giao thông. Có đường như có mạch máu kinh tế, không khí sinh động vui tươi, người dân hy vọng có gì đó đổi mới.

Khi phát hiện ra khí, một loạt các doanh nghiệp được thành lập. Mỏ khí được coi là “máy cái” của KCN. Thời đó, giá trị gia tăng ở KCN Tiền Hải là cao nhất tỉnh Thái Bình. Khi có khí thì mọi loại hình công nghiệp đều phát triển mạnh, ngay cả với các doanh nghiệp không cần đến khí và đã thu hút được nhiều lao động đến KCN Đông Cơ - Tiền Hải.

Thành Công

Bình luận, Hỏi đáp